chữ chạy đầu trang

Chào mừng các bạn đến với diễn đàn lớp 9/5 - Chi Đội Phan Đăng Lưu, Trường THCS Lý Tự Trọng, TP. Tam Kỳ. Chúc các bạn có một ngày học tập thật tốt!

Thứ Ba, 5 tháng 9, 2017

Tiểu sử Nhà hoạt động Cách mạng Phan Đăng Lưu (1902-1941)

THÂN THẾ

Ông sinh ngày 5 tháng 5 năm 1902, tại xã Tràng Thành (nay là Hoa Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông là con trai cả của cụ Phan Đăng Dư, một nhà nho yêu nước, và cụ bà Trần Thị Liễu, con gái cụ cử (cử nhân) Trần Danh Tiêu. Theo nhiều tài liệu, ông là hậu duệ đời thứ 15 của Mạc Mậu Giang, một hoàng tử nhà Mạc.[1][2] Sau khi nhà Mạc đổ, cụ Mạc Mậu Giang đưa con cháu vào Nghệ An lập nghiệp. Một người con là Mạc Huyền Nhai trở thành thủy tổ của dòng họ Phan Mạc ở Yên Thành, trong đó có dòng họ Phan Đăng.[3]


BƯỚC ĐẦU HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG


Thuở nhỏ, ông có tiếng học giỏi thông minh, khi mới 16 tuổi, ông đã tham dự kỳ thi Hương, dù phải khai tăng thêm 2 tuổi để được đi thi (1918). Tuy nhiên do Nho học không còn được trọng, ông học thêm chữ Quốc ngữ và chữ Pháp tại Trường tiểu học Pháp- Việt ở Vinh & Trường Quốc học Huế.
Khi học hết năm đầu bậc trung học tại Trường Quốc học Huế, ông quyết định thi vào Trường Canh nông thực hành ở Tuyên Quang,[4][5][6] vì ông cho rằng "hiện nay ích nước, lợi dân không gì bằng mở mang nông nghiệp, mà muốn thế, thì phải thâu thái những cái hay của các nước văn minh trong nghề đó". Sau khi tốt nghiệp hạng ưu năm 1923, ông được bổ vào ngạch Thông phán, làm nhân viên tại Sở Canh nông Bắc Kỳ, vì vậy còn được dân gian gọi là ông Phán Tằm.
Cuối năm 1925, ông được đổi về Sở Canh nông Nghệ An tại Vinh. Tại đây, ông có những liên lạc với một số thành viên Hội Phục Việt, thường xuyên trao đổi thời cuộc và tìm đọc các tài liệu cách mạng. Chính thời gian này, ông đã được tiếp xúc với những tài liệu Cộng sản đầu tiên bằng tiếng Pháp như Le Capital của Karl Marx và Le Procès de la colonisation française của Nguyễn Ái Quốc.[7][8]
Cuối năm 1925, ông ký tên vào bản yêu sách đòi chính quyền thực dân Pháp trả lại tự do cho chí sĩ Phan Bội Châu. Do việc làm này, tháng 3 năm 1926, chính quyền thực dân đã đổi ông về Diễn Châu để tách ông ra khỏi các ảnh hưởng của phong trào cách mạng tại Vinh. Cuối năm 1926, ông được các ông Trần Văn Cung, Võ Mai, thành viên Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội vừa dự lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu về nước, liên lạc tuyên truyền cách mạng và phát triển tổ chức. Không lâu sau, ông lại bị đổi vào Bình Định rồi Đồng Nai Thượng (nay thuộc Lâm Đồng). Tuy nhiên, dù ở đâu, ông vẫn bộc lộ quan điểm chống chính quyền thực dân Pháp. Vì vậy, giữa năm 1927, ông bị thải hồi vì "vô kỉ luật, hoạt động chống đối".[3][8]
Trở về quê nhà ở Nghệ An, ông tiếp tục hoạt động cho Hội Phục Việt. Tháng 2 năm 1928, ông được kết nạp vào Hội Phục Việt, lúc này được đổi tên là Hội Hưng Nam, cùng thầy giáo Trần Văn Tăng xây dựng cơ sở Hội ở Yên Thành. Thời gian sau, ông được Tổng bộ cử vào Huế phụ trách "Quan hải tùng thư", cơ quan xuất bản sách báo tiến bộ của Hội Hưng Nam.[8]
Ngày 14 tháng 7 năm 1928, Hội Hưng Nam đổi tên là Tân Việt Cách mạng Đảng. Ông được bầu làm Ủy viên thường vụ Tổng bộ phụ trách Tuyên huấn. Trong vai trò này, ông cùng với Đào Duy Anh và một số đồng chí khác dịch, hiệu đính, biên soạn một số tài liệu cho "Quan hải tùng thư" như "A.B.C Chủ nghĩa Mác", "Dân chủ mới", "Xã hội luận", "Lược sử các học thuyết kinh tế", "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản"...[6][8]
Ngày 12 tháng 12 năm 1928, ông cùng Hà Huy Tập được Tổng bộ cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) để tìm hiểu thái độ của Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội về vấn đề hợp nhất hai tổ chức. Nhưng lúc này Tổng bộ Thanh niên ở Quảng Châu đã rút vào hoạt động bí mật nên sau 5 tháng không bắt được liên lạc, ông trở về nước. Ngày 15 tháng 5 năm 1929, ông đề đạt ý kiến của mình với Tổng bộ Đảng Tân Việt về việc tổ chức một Đảng Cộng sản. Tháng 9 năm 1929, ông bí mật đi Hải Phòng để sang Quảng Châu lần thứ hai để bàn tiếp việc hợp nhất với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhưng do có chỉ điểm, ông đã bị mật thám Pháp bắt tại Hải Phòng trước khi xuống tàu. Ngày 21 tháng 11 năm 1929, ông cùng 60 đảng viên Đảng Tân Việt bị toà án Nam triều ở Vinh đưa ra xử. Riêng ông bị kết án 3 năm tù khổ sai đày đi Buôn Ma Thuột.[6][7][8], đây là mức án cao nhất dành cho những người lãnh đạo Đảng Tân Việt. Ở trong tù, ông tích cực hoạt động, vận động anh em học tiếng Êđê & làm báo tiếng Ê đê (Doản- Đê tù báo) để thực hiện công tác binh vận người dân tộc thiểu số & Viết báo gửi ra ngoài tố cáo chế độ tàn bạo của thực dân Pháp. Vì vậy đã bị tăng án lên 5 năm tù khổ sai, cấm cố tại xà lim, bị liệt vào "loại nguy hiểm".
Giữa năm 1936, ông được ra tù, nhưng thực dân Pháp không cho ông về quê mà bị quản thúc ở Huế. Ông lại tiếp tục hoạt động cách mạng và đã có những đóng góp xuất sắc vào các cuộc vận động hợp pháp và nửa hợp pháp ở Trung Kì như lãnh đạo Phong trào Đông Dương Đại hội (1936); Lãnh đạo cuộc "đón tiếp" Gôđa- người cầm đầu phái bộ của Chính phủ Pháp sang Đông dương điều tra tình hình (1937); Chỉ đạo đấu tranh & vận động tranh cử đưa người của Đảng vào Viện Dân biểu Trung Kỳ (1937); Tổ chức Hội nghị báo giới Trung Kì... Phan Đăng Lưu trực tiếp viết bài & chỉ đạo các báo Sông Hương tục bảnDân, Dân tiến, Dân muốn.., đồng thời viết nhiều sách lý luận chính trị, lý luận văn học, như Thi văn các nhà chí sỹ Việt Nam, Lịch sử học thuyết kinh tế, Xã hội luận, Xã hội tư bản, Thế giới cũ và thế giới mới...qua đó ẩn ý để giác ngộ, tuyên truyền chủ trương cách mạng & đặc biệt giới thiệu học thuyết kinh tế của C.Mác... với các bí danh Tân Cương, Phi Bằng, Bằng Phi, Đông Tùng, Mục Tiêu, Thương Tâm, Q.B, Nghị Toét, DÂN, DÂN TIẾN, D.M, SH, Xxx,K.§,...
Tháng 9-1937, ông tham dự Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng mở rộng tại Hóc Môn, Bà Điểm, Gia Định và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.[9][10]
Tháng 3-1938, Hội nghị đại biểu cả ba Xứ ủy bầu ra Ban Chấp hành mới, Phan Đăng Lưu và Lê Duẩn lập ra Ban Thường vụ, Hà Huy Tập thôi chức Tổng Bí thư, Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư mới [11]
Tháng 9- 1939, ông được điều động vào Nam Kỳ hoạt động và được Trung ương phân công phụ trách phong trào cách mạng các tỉnh Nam Kỳ [12]
Tháng 11-1939, ông tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6 tại Bà Điểm, Hóc Môn & đã góp phần quan trọng trong việc đề ra đường lối chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, tiến tới giai đoạn dân tộc giải phóng [13][14]
Tháng 4-1940 đến Hội nghị Tái lập BCH Trung ương: Ông trực tiếp Lãnh đạo điều hành hoạt động của Ban chấp hành Trung ương (thực hiện vai trò, chức trách của Tổng Bí thư) [15]
Tháng 7-1940, Xứ uỷ Nam Kì họp, đề ra chủ trương khởi nghĩa. Lấy tư cách đại diện Trung ương đến dự, với phân tích sâu sắc ông đã chỉ rõ những nguyên tắc khởi nghĩa: "Không thể nhìn một địa phương mà đánh giá tình hình, mà phải nhìn cả nước, nhìn thế giới và mọi mặt mới có thể đánh giá đúng được; Không thể đùa với khởi nghĩa, không thể đưa quần chúng đến chỗ hy sinh vô ích; Phải có lệnh của Trung ương mới được thi hành" & ông khuyên Xứ uỷ hãy chờ xin chỉ thị của Trung ương [16][17][18][19]
Tháng 10-1940, ông bí mật từ miền Nam ra Bắc để tiến hành triệu tập và tổ chức Hội nghị Tái lập Ban Chấp hành Trung ương Đảng & chính thức chuyển cơ quan Trung ương từ Nam ra Bắc [20]
Tháng 11-1940, tại Đình Bảng, Bắc Ninh, ông chủ trì Hội nghị Tái lập Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thường gọi là Hội nghị Trung ương 7.[21][22][23] Tại Hội nghị, ông được đề cử làm Tổng Bí thư, nhưng ông không nhận, vì ông cho rằng mình cần về miền Nam, trong đó Xứ ủy & nhân dân đang ngóng chờ kết quả chuyến đi và đề phòng ông bị bắt, sẽ gây trở ngại cho Trung ương mới được củng cố ở miền Bắc.[24][25][26] Ngay sau Hội nghị, ông quay trở lại miền Nam để hoãn khởi nghĩa Nam Kỳ, theo quyết định của Hội nghị Trung ương, do có kẻ chỉ điểm, ông đã bị mật thám Pháp bắt vào đêm 22-11-1940 khi vừa mới đặt chân đến Sài Gòn, chưa kịp truyền đạt chỉ thị của Trung ương về việc hoãn khởi nghĩa, thì cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã nổ ra ngày 23-11-1940.
Ngày 3-3-1941, Pháp mở tòa án binh, Phan Đăng Lưu bị thực dân Pháp kết án tử hình, với hai điều buộc tội chủ yếu: tham dự một cuộc họp bí mật sau đó lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc đã được phát đi & thảo lời kêu gọi cho quân đội cách mạng.[27] Ngày 26-8-1941, ông bị xử bắn tại trường bắn Ngã Ba Giồng, Hóc Môn, Gia Định cùng với đồng chí Nguyễn Văn Cừ.[28]
Tháng 11-1998, gia đình Phan Đăng Lưu xin phép TW Đảng cho được tìm mộ, đã tìm bằng phương pháp ngoại cảm & tìm thấy vào ngày 08-11-1998 tại khu vực xã Xuân Thới Thượng, Hóc Môn. Cải táng vào tháng 4-1999, ảnh Lễ Cải táng được đăng tải trên Báo Nghệ An cuối tuần- năm thứ 41, số 5881, ngày 5-5-2002 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông.
Phần mộ ông được đặt tại Nghĩa trang liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh.[29]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét